Nội dung cơ bản của Dự án Luật Chứng khoán (sửa đổi)

21/05/2019 | Tin từ SSC

Thực hiện Nghị quyết số 57/2018/QH14 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 và điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018, Chính phủ đã có Tờ trình số 97/TTr-CP ngày 22 tháng 3 năm 2019 trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án Luật Chứng khoán (sửa đổi).

Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 33 ngày 16/4/2019 và Báo cáo thẩm tra sơ bộ về dự án Luật của Ủy ban Kinh tế ngày 08/4/2019, Chính phủ đã hoàn thiện dự án Luật Chứng khoán (sửa đổi) và có Tờ trình số 186/TTr-CP ngày 09/5/2019 trình Quốc hội về dự án Luật.

I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU VÀ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT CHỨNG KHOÁN (SỬA ĐỔI)

1. Mục đích, yêu cầu

Việc xây dựng Luật Chứng khoán (sửa đổi) nhằm hoàn thiện thể chế, ổn định môi trường pháp lý bảo đảm cho sự phát triển ổn định, bền vững, an toàn của TTCK, đáp ứng yêu cầu hội nhập, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với TTCK, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; bảo đảm TTCK là kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng của nền kinh tế.

2. Quan điểm chỉ đạo

Một là, thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ thị trường vốn và TTCK, trong đó xây dựng TTCK trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển.

Hai là, đảm bảo TTCK hoạt động minh bạch, bền vững, an toàn, chuyên nghiệp, hiện đại; tiếp cận với thông lệ, chuẩn mực quốc tế, xu hướng phát triển trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.

Ba là, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ với các Luật liên quan đã và đang trong quá trình sửa đổi như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các luật chuyên ngành khác; tương thích với các điều ước, cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Bốn là, kế thừa những quy định pháp luật về chứng khoán còn phù hợp với thực tế, có tác động tích cực đối với sự phát triển của TTCK; bổ sung những nội dung chưa được điều chỉnh; sửa đổi quy định chưa rõ, bất cập; loại bỏ những quy định không còn phù hợp; luật hóa một số quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán hiện hành đã ổn định và phù hợp với thực tế; xử lý những vướng mắc, hạn chế hiện nay của TTCK.

Năm là, cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động chứng khoán và TTCK góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.

II. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ ÁN LUẬT

1. Bố cục

Dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi) về cơ bản giữ nguyên bố cục của Luật hiện hành, gồm 10 chương, 136 điều, cụ thể như sau:

Chương I. Những quy định chung, gồm 11 điều (từ Điều 1 đến Điều 11).

Chương II. Chào bán chứng khoán, gồm 19 điều (từ Điều 12 đến Điều 30).

Chương III. Công ty đại chúng, gồm 10 điều (từ Điều 31 đến Điều 40).

Chương IV. Thị trường giao dịch chứng khoán, gồm 11 điều (từ Điều 41 đến Điều 51).

Chương V. Đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán, gồm 19 điều (từ Điều 52 đến Điều 70).

Chương VI. Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, gồm 29 điều (từ Điều 71 đến Điều 99).

Chương VII. Quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán, gồm 19 điều (từ Điều 100 đến Điều 118).

Chương VIII. Công bố thông tin, gồm 10 điều (từ Điều 119 đến Điều 128).

Chương IX. Thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại, gồm 05 điều (từ Điều 129 đến Điều 133).

Chương X. Điều khoản thi hành, gồm 03 điều (từ Điều 134 đến Điều 136).

2. Nội dung cơ bản

So với Luật Chứng khoán hiện hành, dự thảo Luật sửa đổi 97 Điều, bổ sung 31 Điều, bãi bỏ 31 Điều và giữ nguyên 08 Điều.

Trên cơ sở mục tiêu, quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật và nội dung các nhóm chính sách đề nghị xây dựng dự án Luật đã được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 83/NĐ-CP ngày 31/8/2017, dự án Luật bao gồm các nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu sau đây:

a) Những quy định chung

- Về phạm vi điều chỉnh: Được sửa đổi, bổ sung bảo đảm bao quát các nội dung cần điều chỉnh. Theo đó, Luật này quy định các hoạt động về chứng khoán và TTCK; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực chứng khoán; tổ chức TTCK; quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK.

- Về đối tượng áp dụng: Đối tượng áp dụng của Luật bao gồm tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư chứng khoán và hoạt động trên TTCK Việt Nam; cơ quan quản lý nhà nước; tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến hoạt động chứng khoán và TTCK.

- Về giải thích từ ngữ: Bổ sung, luật hóa 14 thuật ngữ; sửa đổi, chuẩn hóa 18 thuật ngữ, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế, bảo đảm phù hợp hơn với thực tiễn và pháp luật có liên quan, tạo cơ sở pháp lý bảo đảm thống nhất trong thực tiễn áp dụng.

- Về nguyên tắc áp dụng Luật Chứng khoán, các luật có liên quan và điều ước quốc tế: Được sửa đổi, bổ sung bảo đảm ưu tiên áp dụng Luật Chứng khoán khi giữa Luật Chứng khoán và Luật liên quan có quy định khác nhau về cùng một vấn đề liên quan đến hoạt động chào bán, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, cung cấp dịch vụ về chứng khoán, công bố thông tin; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực chứng khoán; tổ chức, hoạt động của TTCK; quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK.

- Về các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn TTCK: Dự thảo Luật quy định các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn TTCK và thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan quản lý về chứng khoán và TTCK trong việc thực hiện các biện pháp đó; giao Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn TTCK.

- Về quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK: Trên cơ sở nội dung quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK, kế thừa quy định của Luật hiện hành, dự án Luật lần này đã cụ thể hóa các nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài chính; tăng cường phân cấp, quyền hạn, trách nhiệm cho UBCKNN để có đầy đủ thẩm quyền và năng lực thực thi chức năng quản lý, giám sát hoạt động của TTCK.

- Về tổ chức nghề nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán: Được bổ sung để tạo khung pháp lý cho vai trò và hoạt động của tổ chức nghề nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán. Tổ chức nghề nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán được thành lập, hoạt động theo quy định của pháp luật về hội và có trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp luật về chứng khoán, chịu sự giám sát của UBCKNN trong hoạt động liên quan đến lĩnh vực chứng khoán. Tổ chức nghề nghiệp về chứng khoán ban hành bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp sau khi được UBCKNN chấp thuận, phối hợp với cơ quan quản lý về chứng khoán và TTCK trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về chứng khoán đến các hội viên.

- Về các hành vi bị cấm: Được sửa đổi, bổ sung bảo đảm thống nhất với các tội danh trong lĩnh vực chứng khoán được quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

b) Về chào bán chứng khoán

- Về phạm vi điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán: Quy định rõ và thống nhất với Luật Doanh nghiệp về phạm vi điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán. Theo đó, Luật Chứng khoán điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, chào bán chứng khoán của CTĐC. Chào bán chứng khoán riêng lẻ của tổ chức phát hành không phải là CTĐC được thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

- Chào bán chứng khoán ra công chúng: Điều kiện chào bán được sửa đổi, bổ sung, chuẩn hóa theo hướng chặt chẽ hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, tránh trường hợp doanh nghiệp lợi dụng chính sách thông thoáng để phát hành với giá trị quá lớn, tiềm ẩn rủi ro đối với các nhà đầu tư và sử dụng vốn không đúng mục đích.

+ Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng: Tách bạch điều kiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng và điều kiện chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng cho phù hợp.

(i) Đối với chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng: Sửa đổi, nâng điều kiện về vốn điều lệ đã góp từ 10 tỷ đồng lên 30 tỷ đồng, phù hợp với sự phát triển của quy mô doanh nghiệp hiện nay, tương thích với điều kiện niêm yết trên SGDCK Hà Nội để gắn chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng với niêm yết chứng khoán; Nâng điều kiện kết quả hoạt động kinh doanh từ 01 năm lên 02 năm liền trước năm đăng ký chào bán có lãi để bảo đảm lựa chọn những công ty có hoạt động kinh doanh tăng trưởng ổn định, năng lực tài chính tốt; Bổ sung quy định điều kiện tối thiểu số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành phải được bán cho ít nhất 100 nhà đầu tư không phải là cổ đông lớn để bảo đảm phù hợp với điều kiện niêm yết tại SGDCK và tính thanh khoản của cổ phiếu công ty khi chào bán lần đầu ra công chúng, phù hợp với thông lệ quốc tế; Quy định điều kiện cổ phiếu của tổ chức phát hành phải được niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên SGDCK sau khi kết thúc đợt chào bán để gắn chào bán chứng khoán ra công chúng với niêm yết, đăng ký giao dịch trên SGDCK.

(ii) Điều kiện chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng: Quy định điều kiện về quy mô của đợt phát hành thêm theo mệnh giá không lớn hơn tổng giá trị cổ phiếu đang lưu hành tính theo mệnh giá, trừ một số trường hợp cụ thể được quy định trong Luật. Đối với đợt chào bán ra công chúng nhằm mục đích huy động phần vốn để thực hiện dự án của tổ chức phát hành, dự thảo Luật quy định đợt chào bán được coi là thành công khi cổ phiếu được bán cho các nhà đầu tư đạt tối thiểu 70% số cổ phiếu dự kiến chào bán; tổ chức phát hành phải có phương án bù đắp phần thiếu hụt vốn dự kiến huy động từ đợt chào bán để thực hiện dự án.

+ Về chào bán trái phiếu ra công chúng: Sửa đổi, nâng điều kiện về vốn của doanh nghiệp chào bán trái phiếu ra công chúng từ 30 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán (Luật hiện hành là 10 tỷ đồng). Bổ sung điều kiện có kết quả xếp hạng tín nhiệm đối với tổ chức phát hành trái phiếu theo quy định của Chính phủ về các trường hợp phải xếp hạng tín nhiệm và thời điểm áp dụng để phù hợp với Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 1191/QĐ-TTg ngày 14/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ và thông lệ quốc tế1.

+ Gắn chào bán chứng khoán ra công chúng với niêm yết, đăng ký giao dịch trên TTCK: Để thực hiện mục tiêu gắn chào bán chứng khoán ra công chúng với niêm yết, đăng ký giao dịch tại SGDCK, giảm thiểu thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian hoàn tất đợt chào bán để tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức phát hành, dự thảo Luật đã bổ sung quy định về điều kiện và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi nộp hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng cho UBCKNN thì đồng thời phải nộp hồ sơ đăng ký niêm yết hoặc đăng ký giao dịch cho SGDCK.

+ Tổ chức kiểm toán và kiểm toán viên hành nghề được chấp thuận: Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát chất lượng hoạt động của các công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán cho các đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán, phù hợp với thông lệ quốc tế, qua đó nâng cao chất lượng chứng khoán chào bán ra công chúng, dự thảo Luật bổ sung quy định UBCKNN xem xét, chấp thuận và công khai danh sách tổ chức kiểm toán và danh sách kiểm toán viên hành nghề được chấp thuận thực hiện kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán. Đồng thời, bổ sung, quy định rõ nghĩa vụ của tổ chức này khi thực hiện kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán.

+ Chào bán cổ phiếu với giá thấp hơn mệnh giá: Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có giá cổ phiếu giao dịch trên SGDCK thấp hơn mệnh giá (10.000 đồng) thực hiện chào bán cổ phiếu huy động vốn để tiếp tục đầu tư, phát triển, dự thảo Luật đã bổ sung quy định mang tính nguyên tắc trong trường hợp giá giao dịch trên SGDCK thấp hơn mệnh giá, giá chào bán do tổ chức phát hành phối hợp với tổ chức bảo lãnh phát hành (nếu có) xác định trên cơ sở nhu cầu của thị trường. Đồng thời, để tạo cơ sở pháp lý hướng dẫn việc chào bán cổ phiếu thấp hơn mệnh giá của tổ chức phát hành, dự thảo Luật giao Chính phủ hướng dẫn cụ thể việc chào bán cổ phiếu thấp hơn mệnh giá. Pháp luật về kế toán hiện nay cũng đã có quy định về hạch toán kế toán trong trường hợp doanh nghiệp chào bán cổ phiếu mà giá chào bán thấp hơn mệnh giá.

- Chào bán chứng khoán riêng lẻ: Sửa đổi phù hợp với thông lệ quốc tế, tránh việc các doanh nghiệp lạm dụng chào bán riêng lẻ thay vì chào bán ra công chúng; quy định rõ đối tượng tham gia chào bán cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ của CTĐC chỉ bao gồm nhà đầu tư chiến lược, nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và bị hạn chế chuyển nhượng (tối thiểu 03 năm đối với nhà đầu tư chiến lược và tối thiểu 01 năm đối với nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp).

c) Công ty đại chúng

- Điều kiện CTĐC: Với mục tiêu nâng cao chất lượng hàng hóa trên TTCK, bảo đảm quy mô, tính đại chúng của công ty, tính khả thi trong thực hiện, không gây xáo trộn thị trường, dự thảo Luật sửa đổi điều kiện về cơ cấu cổ đông (có tối thiểu 10% số cổ phiếu có quyền biểu quyết do ít nhất 100 nhà đầu tư không phải là cổ đông lớn nắm giữ) cho phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế; đồng thời, nâng điều kiện về vốn điều lệ đã góp tối thiểu từ 30 tỷ đồng trở lên. Việc nâng mức vốn điều lệ tối thiểu của CTĐC như tại dự thảo Luật không gây tác động đối với hoạt động của các CTĐC, cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của cổ đông trong công ty và hoạt động giao dịch trên TTCK, do: (i) Đối với CTĐC chưa niêm yết/đăng ký giao dịch mà không đáp ứng điều kiện về vốn điều lệ tối thiểu theo quy định mới của Luật thì sẽ không còn tư cách CTĐC và không phải thực hiện các nghĩa vụ của CTĐC; quyền lợi của chính CTĐC, cổ đông trong công ty và thị trường không bị ảnh hưởng, xáo trộn do cổ phiếu của công ty đó chưa niêm yết/đăng ký giao dịch trên thị trường; (ii) Đối với CTĐC đã niêm yết/đăng ký giao dịch mà không đáp ứng điều kiện của Luật, để bảo đảm quyền của cổ đông, không gây tác động đến hoạt động giao dịch cổ phiếu của các công ty này trên thị trường, dự thảo Luật quy định điều khoản chuyển tiếp, theo đó, các công ty này không bị hủy tư cách CTĐC, trừ trường hợp Đại hội đồng cổ đông công ty thông qua việc hủy tư cách CTĐC.

- Chào mua công khai: Để bảo đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch, nhằm ngăn ngừa tình trạng lách luật, thực hiện mua gom trong thời hạn dài dẫn đến sở hữu tỷ lệ chi phối/kiểm soát công ty mà không chào mua công khai, thực hiện thâu tóm không công bằng, dự thảo Luật sửa đổi quy định rõ các chủ thể phải thực hiện chào mua công khai, sửa đổi các mốc sở hữu cụ thể phải chào mua công khai; trường hợp không phải chào mua công khai được Đại hội đồng cổ đông thông qua phải quy định rõ đối tượng chuyển nhượng, nhận chuyển nhượng.

- Về CTĐC mua lại cổ phiếu của chính mình: Dự thảo Luật sửa đổi theo hướng thống nhất với quy định tại Điều 131 của Luật Doanh nghiệp, công ty mua lại cổ phiếu của chính mình phải làm thủ tục giảm vốn điều lệ tương ứng với tổng giá trị mệnh giá các cổ phiếu được công ty mua lại, ngoại trừ một số trường hợp như mua lại cổ phiếu lẻ theo phương án phát hành cổ phiếu để trả cổ tức, phát hành cổ phiếu từ nguồn vốn chủ sở hữu; CTCK mua lại cổ phiếu của chính mình để sửa lỗi giao dịch hoặc mua lại cổ phiếu lô lẻ.

- Quản trị CTĐC: Sửa đổi một số quy định về nguyên tắc quản trị công ty áp dụng đối với CTĐC phù hợp với nguyên tắc quản trị công ty của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD/G20 năm 2015); quy định một số nội dung chủ yếu về quản trị CTĐC và giao Chính phủ quy định chi tiết.

d) Thị trường giao dịch chứng khoán

- Về tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán: Kế thừa Luật hiện hành, dự thảo Luật quy định SGDCK tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán cho các chứng khoán đủ điều kiện niêm yết tại Sở. Ngoài ra, bổ sung, luật hóa quy định: SGDCK tổ chức thị trường giao dịch các cổ phiếu của DNNN, công ty TNHH một thành viên do DNNN đầu tư 100% vốn điều lệ chuyển đổi thành công ty cổ phần, chứng khoán của các doanh nghiệp khác chưa đủ điều kiện niêm yết, chứng khoán của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, chứng khoán phái sinh và các loại chứng khoán khác tại SGDCK theo quy định của Chính phủ.

- Về tạm ngừng, đình chỉ, khôi phục một phần hoặc toàn bộ hoạt động giao dịch của SGDCK:Dự thảo Luật bổ sung một điều quy định các trường hợp áp dụng biện pháp tạm ngừng, đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động của SGDCK như: khi xảy ra chiến tranh, thảm họa tự nhiên, biến động lớn của nền kinh tế, sự cố hệ thống giao dịch hoặc các sự kiện bất khả kháng khác làm ảnh hưởng đến hoạt động giao dịch bình thường của thị trường giao dịch chứng khoán hoặc khi thị trường giao dịch chứng khoán có biến động bất thường, có dấu hiệu ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư hoặc trong trường hợp cần thiết để đảm bảo ổn định, an toàn và tính toàn vẹn của TTCK; quy định điều kiện khôi phục một phần hoặc toàn bộ hoạt động giao dịch chứng khoán trên SGDCK.

- Mô hình tổ chức và hoạt động, bộ máy quản lý, điều hành, Điều lệ của SGDCK: Mô hình tổ chức của SGDCK được sửa đổi cho phù hợp với Luật Doanh nghiệp, đồng thời cũng tính đến các yếu tố đặc thù trong thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể của SGDCK bảo đảm cho SGDCK thực hiện tốt chức năng tổ chức và giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán. Mô hình tổ chức tại dự thảo Luật là đáp ứng yêu cầu thực tiễn, không gây xáo trộn về tổ chức và hoạt động của các SGDCK, phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế. Quy định tại dự thảo Luật thể chế hóa chủ trương thành lập SGDCK Việt Nam nhằm thống nhất, đồng bộ cơ chế quản lý, giám sát, vận hành thị trường giao dịch chứng khoán.

Theo đó, SGDCK được thành lập và hoạt động theo mô hình công ty TNHH hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật này và Luật Doanh nghiệp. Thủ tướng Chính phủ quyết định việc thành lập, giải thể, chuyển đổi cơ cấu tổ chức, hình thức sở hữu và việc kết nối giao dịch chứng khoán với Sở giao dịch chứng khoán nước ngoài của SGDCK theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Dự thảo Luật quy định về bộ máy quản lý, điều hành của SGDCK phù hợp với từng mô hình doanh nghiệp (công ty TNHH hoặc công ty cổ phần), thống nhất với Luật Doanh nghiệp. Kế thừa Luật hiện hành, dự thảo Luật quy định Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc (Giám đốc) SGDCK do Bộ trưởng Bộ Tài chính phê chuẩn theo đề nghị của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị và ý kiến của Chủ tịch UBCKNN; Điều lệ SGDCK được Bộ Tài chính phê chuẩn theo đề nghị của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị SGDCK và ý kiến của Chủ tịch UBCKNN. Quy định này thể hiện trách nhiệm của UBCKNN, Bộ Tài chính trong vai trò là cơ quan quản lý chuyên ngành đối với TTCK, đáp ứng yêu cầu quản lý đối với lĩnh vực đặc thù là chứng khoán, bảo đảm thực hiện đúng theo nguyên tắc được khuyến nghị bởi IOSCO và phù hợp với thông lệ quốc tế2.

- Quyền và nghĩa vụ của SGDCK: Dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi) kế thừa hầu hết các quy định về quyền và nghĩa vụ của SGDCK trong Luật hiện hành. Tuy nhiên, để luật hóa đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của SGDCK trên thực tế, bảo đảm cho SGDCK thực hiện tốt chức năng tổ chức và giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán, dự thảo Luật quy định rõ trách nhiệm của SGDCK trong việc giám sát giao dịch, giám sát việc tuân thủ nghĩa vụ của các thành viên giao dịch, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với thành viên, tổ chức có chứng khoán niêm yết, giao dịch tại SGDCK, nâng cao trách nhiệm của SGDCK trong việc phòng ngừa, xử lý rủi ro, khủng hoảng nhằm bảo đảm an toàn của TTCK... Dự thảo luật cũng bổ sung trách nhiệm của cán bộ, nhân viên, người lao động của SGDCK trong khi thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy định về bảo mật thông tin và pháp luật khác có liên quan.

- Niêm yết, đăng ký giao dịch chứng khoán: Qua khảo sát kinh nghiệm quốc tế nhận thấy, đa phần các doanh nghiệp khi chào bán chứng khoán lần đầu ra công chúng (IPO) đồng thời đã được chấp thuận niêm yết, đăng ký giao dịch trên SGDCK3. Dự thảo Luật bổ sung quy định chứng khoán đã chào bán ra công chúng, chứng chỉ quỹ của quỹ đóng, quỹ hoán đổi danh mục, chứng quyền có bảo đảm, chứng khoán phái sinh do UBCKNN chấp thuận phải được niêm yết, đăng ký giao dịch tại SGDCK.

- Tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam: Nhằm triển khai việc mở cửa thị trường cho nhà đầu tư nước ngoài được thực hiện từng bước theo lộ trình, bảo đảm dư địa cho các Bộ ngành trong đàm phán và ký kết các thỏa ước quốc tế, dự thảo Luật quy định nguyên tắc nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài khi tham gia đầu tư, hoạt động trên TTCK Việt Nam tuân thủ quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, điều kiện, trình tự, thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật về chứng khoán và giao Chính phủ hướng dẫn cụ thể về quy định này, thay vì quy định chi tiết tại dự thảo Luật tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài như nội dung chính sách đề nghị xây dựng Luật.

đ) Đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán

- Mô hình tổ chức và hoạt động, bộ máy quản lý, điều hành của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam: Được sửa đổi, bổ sung tương tự như SGDCK.

- Quyền và nghĩa vụ của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam: Bổ sung một số quyền và nghĩa vụ của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam trên cơ sở rà soát thực tế hoạt động và kinh nghiệm quốc tế; bổ sung trách nhiệm của cán bộ, nhân viên, người lao động của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam trong khi thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải tuân thủ quy định pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, bảo mật thông tin và quy định pháp luật khác có liên quan.

- Thành viên của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam: Dự thảo Luật quy định thành viên của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam bao gồm thành viên lưu ký, bổ sung thành viên bù trừ để phù hợp với thực tiễn.

- Hoạt động nghiệp vụ:

+ Về lưu ký chứng khoán: Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong giao dịch dân sự, tạo điều kiện thuận lợi trong giải quyết tranh chấp về giao dịch bảo đảm trong trường hợp chủ sở hữu chứng khoán sử dụng chứng khoán cầm cố, thế chấp với nhiều bên, dự thảo Luật bổ sung quy định Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm đối với chứng khoán sử dụng làm tài sản bảo đảm trong các giao dịch bảo đảm theo yêu cầu của khách hàng.

+ Bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán: Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung bảo đảm bao quát hết các nguyên tắc bù trừ cho các thị trường, làm rõ vai trò của tổ chức tham gia thanh toán giao dịch chứng khoán, bổ sung quy định về hoạt động bù trừ, thanh toán chứng khoán phái sinh.

+ Tương tự như quy định về tạm ngừng, đình chỉ, khôi phục hoạt động giao dịch của SGDCK, dự thảo Luật bổ sung một điều quy định các trường hợp áp dụng biện pháp tạm ngừng, đình chỉ, khôi phục một phần hoặc toàn bộ hoạt động lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam.

- Quỹ bù trừ: Dự thảo Luật đã bổ sung quy định về quỹ bù trừ nhằm hỗ trợ bảo đảm khả năng thanh toán cho các giao dịch trên TTCK phái sinh.

- Về ngân hàng thanh toán: Với tư cách là tổ chức phụ trợ trên TTCK, ngân hàng thanh toán cung cấp dịch vụ thanh toán tiền cho các giao dịch chứng khoán trên SGDCK. Nhằm luật hóa quy định về tổ chức này, dự thảo Luật bổ sung quy định về điều kiện đăng ký; quyền, nghĩa vụ của ngân hàng thanh toán.

e) Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán

- Về cấp Giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK, CTQLQ, chi nhánh CTCK, CTQLQ nước ngoài tại Việt Nam và đăng ký doanh nghiệp: Dự thảo Luật đã sửa đổi quy định về cấp giấy phép thành lập và hoạt động đối với CTCK, CTQLQ theo hướng tách thành 02 hoạt động: (i) Cơ quan quản lý về chứng khoán và TTCK (UBCKNN) cấp Giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán cho CTCK, CTQLQ và chi nhánh CTCK, CTQLQ nước ngoài tại Việt Nam (ii) Sau khi được cấp Giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán, CTCK, CTQLQ và chi nhánh CTCK, CTQLQ nước ngoài tại Việt Nam phải đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại Luật Doanh nghiệp.

- Tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trong CTCK, CTQLQ: Dự thảo Luật đã luật hóa, bổ sung quy định này, thể hiện rõ việc thực hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO trong lĩnh vực chứng khoán.

- Về hoạt động của CTCK, CTQLQ:

+ Nhằm duy trì chất lượng, hiệu quả hoạt động của CTCK, CTQLQ, bổ sung quy định về trách nhiệm của các chủ thể này phải tuân thủ và duy trì các điều kiện cấp Giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán. Trường hợp không duy trì các điều kiện theo quy định, CTCK, CTQLQ phải thực hiện các biện pháp khắc phục hoặc bị hạn chế hoạt động.

+ Nhằm tăng cường tính minh bạch trong hoạt động nghiệp vụ của CTCK, dự thảo Luật sửa đổi theo hướng quy định rõ các dịch vụ CTCK được cung cấp khi được cấp phép các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. Đồng thời, quy định rõ CTCK chỉ được cung cấp dịch vụ tài chính khác phù hợp với quy định pháp luật có liên quan sau khi báo cáo UBCKNN bằng văn bản. UBCKNN có quyền yêu cầu tạm ngừng, đình chỉ việc cung cấp dịch vụ khác của công ty nếu thấy trái với quy định pháp luật và gây rủi ro hệ thống TTCK.

+ Bổ sung một số nghĩa vụ của CTCK như xây dựng hệ thống, cơ sở dữ liệu dự phòng để bảo đảm hoạt động an toàn và liên tục; Thực hiện giám sát giao dịch chứng khoán để có khả năng kiểm soát các hành vi của khách hàng trong giao dịch chứng khoán...

+ Về quản lý tài sản của khách hàng: Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, tuân thủ các nguyên tắc về tách biệt và bảo vệ tài sản của khách hàng theo nguyên tắc của IOSCO, thuận tiện trong việc xử lý các trường hợp CTCK, CTQLQ giải thể, phá sản, dự thảo Luật bổ sung quy định rõ tài sản của khách hàng do CTCK tiếp nhận và quản lý, tài sản của khách hàng ủy thác trên tài khoản lưu ký của CTQLQ là tài sản của khách hàng, không phải của CTCK, CTQLQ. Trường hợp CTQLQ giải thể hoặc bị phá sản, các tài sản này phải được hoàn trả cho khách hàng sau khi trừ đi nghĩa vụ nợ phải trả của khách hàng đối với CTQLQ.

- Về hành nghề chứng khoán: Để nâng cao chất lượng đội ngũ người hành nghề chứng khoán, bảo đảm quản lý chặt chẽ hoạt động hành nghề chứng khoán, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định rõcác loại chứng chỉ hành nghề chứng khoán; chuẩn hóa các điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán về năng lực hành vi, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của cá nhân được cấp chứng chỉ; bổ sung, quy định rõ người được cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán chỉ được hành nghề chứng khoán với tư cách đại diện cho CTCK, CTQLQ và chi nhánh CTCK, CTQLQ nước ngoài tại Việt Nam.

g) Quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán

Cơ bản kế thừa quy định của Luật hiện hành. Một số nội dung quy định về hạn chế đối với quỹ đại chúng được sửa đổi trên cơ sở tham khảo thông lệ quốc tế, phù hợp với thực trạng quản lý quỹ tại Việt Nam. Việc chào bán, thành lập, tổ chức lại các loại hình quỹ, dự thảo Luật giao Chính phủ quy định. Đối với hoạt động của các loại hình quỹ thường mang tính kỹ thuật nên dự thảo Luật quy định thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính và pháp luật khác có liên quan.

h) Công bố thông tin

Để khắc phục bất cập, hạn chế của Luật hiện hành, đồng thời tiếp cận với thông lệ quốc tế, nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch của TTCK, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật như giao dịch nội bộ, thâu tóm doanh nghiệp bất hợp pháp, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau:

- Về đối tượng công bố thông tin: Dự thảo Luật bổ sung các đối tượng phải công bố thông tin như: tổ chức phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng; tổ chức niêm yết trái phiếu doanh nghiệp; cổ đông lớn, nhóm người có liên quan sở hữu từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của CTĐC; nhà đầu tư, nhóm người có liên quan sở hữu từ 5% trở lên chứng chỉ quỹ của quỹ đóng; cổ đông sáng lập trong thời gian bị hạn chế chuyển nhượng của CTĐC, công ty đầu tư chứng khoán đại chúng; người nội bộ và người có liên quan của người nội bộ.

- Nội dung công bố thông tin của các đối tượng: Dự thảo Luật quy định các nội dung công bố thông tin cơ bản của các đối tượng phải công bố trên cơ sở luật hóa quy định đã được áp dụng ổn định tại văn bản dưới luật, đồng thời bảo đảm thống nhất với Luật Doanh nghiệp.

Nội dung, thời hạn, phương thức, ngôn ngữ công bố thông tin của từng đối tượng được dự thảo Luật giao Bộ Tài chính quy định để bảo đảm tính linh hoạt trong thực tiễn triển khai.

i) Về thanh tra, xử lý vi phạm

- Thẩm quyền của UBCKNN trong thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm:

Dự thảo Luật bổ sung một số quyền cho UBCKNN như: (i) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu, dữ liệu hoặc yêu cầu tổ chức, cá nhân giải trình, đến làm việc liên quan đến nội dung thanh tra, kiểm tra; (ii) Yêu cầu tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng tại Việt Nam cung cấp thông tin liên quan đến giao dịch trên tài khoản của khách hàng đối với các trường hợp có dấu hiệu thực hiện hành vi bị cấm trong hoạt động chứng khoán và TTCK; (iii) Yêu cầu doanh nghiệp viễn thông cung cấp tên, địa chỉ, số máy gọi, số máy được gọi, thời gian gọi để xác minh, xử lý các hành vi bị cấm. Quy định của dự thảo Luật đã khắc phục hạn chế của Luật hiện hành, bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế, phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán đạt hiệu quả, bảo đảm phù hợp với các luật khác có liên quan như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Viễn thông...

- Mức phạt tiền tối đa trong xử phạt vi phạm hành chính về chứng khoán:

Để có chế tài đủ mạnh, nâng cao tính răn đe, phòng ngừa, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trên thị trường, dự thảo Luật quy định mức phạt tối đa theo hướng: đối với một số hành vi vi phạm nghiêm trọng ảnh hưởng đến tính minh bạch, an toàn của thị trường như thao túng thị trường, giao dịch nội bộ... thì mức phạt tiền tối đa là mười (10) lần khoản thu trái pháp luật đối với tổ chức và năm (5) lần khoản thu trái pháp luật đối với cá nhân; đối với các hành vi vi phạm khác quy định mức phạt tiền tối đa là 03 tỷ đồng đối với tổ chức và 1,5 tỷ đồng đối với cá nhân.

k) Điều khoản thi hành

Quy định điều khoản chuyển tiếp đối với một số hoạt động phát sinh trước thời điểm hiệu lực của Luật này, cụ thể như sau:

- Tổ chức đã đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, đăng ký giao dịch; quỹ đầu tư chứng khoán đã đăng ký thành lập và hoạt động đáp ứng yêu cầu theo quy định của Luật này không phải thực hiện thủ tục đăng ký lại.

- Trong thời hạn hai (02) năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, chi nhánh công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam được cấp Giấy phép trước khi Luật này có hiệu lực phải bảo đảm đáp ứng các điều kiện cấp Giấy phép hoạt động theo quy định của Luật này; sau hai (02) năm mà không đáp ứng thì căn cứ vào các điều kiện của Luật để điều chỉnh hoặc thu hồi Giấy phép.

- Trong thời hạn một (01) năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, chi nhánh công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam đã được cấp Giấy phép trước khi Luật này có hiệu lực thi hành phải đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại Luật này.

- Công ty đại chúng có cổ phiếu đã niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trước thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành mà không đáp ứng được quy định của Luật này thì không bị hủy tư cách công ty đại chúng, trừ trường hợp được Đại hội đồng cổ đông thông qua việc hủy tư cách công ty đại chúng.

- Công ty đại chúng có cổ phiếu chưa niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch trước thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành mà không đáp ứng được quy định của Luật này thì bị hủy tư cách công ty đại chúng.

Dự thảo Luật quy định hiệu lực thi hành của Luật là từ ngày 01 tháng 01 năm 2021.

UBCKNN

1 Tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippine, Malaysia, Indonesia, phát hành trái phiếu ra công chúng phải có xếp hạng tín nhiệm.

2 Luật Chứng khoán đa số đều quy định bộ máy, tổ chức cũng như thẩm quyền của UBCK (cơ quan quản lý TTCK) trong bổ nhiệm chức danh quản lý của Sở; phê chuẩn Điều lệ Sở.

3 Tại Ấn Độ, theo ban Chứng khoán và Giao dịch chứng khoán Ấn Độ (SEBI) đã quyết định cắt giảm thời gian từ lúc IPO đến khi niêm yết trên TTCK từ 13 ngày (năm 2010) xuống chỉ còn 06 ngày (từ năm 2016). Đối với Sở GDCK Australia quy trình niêm yết bao gồm đưa cổ phiếu quy trình IPO và đưa cổ phiếu vào giao dịch (kéo dài khoảng 19 tuần, từ khi chỉ định đơn vị tư vấn đến khi kết thúc phát hành và đưa cổ phiếu vào giao dịch).

Nguồn tin: SSC

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây